Liên kết nhà trường- doanh nghiệp du lịch

Huy Hoàng
Liên kết nhà trường – nhà doanh nghiệp chặt chẽ hơn để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực du lịch đủ năng lực hội nhập du lịch Asean và thế giới.

Tóm tắt: Để hội nhập sâu và toàn diện với du lịch của Cộng đồng ASEAN và thế giới phải có đội ngũ nhân lực đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và hợp lý về cơ cấu với năng lực thực hiện tốt. Muốn vậy rất cần sự liên kết chặt chẽ hơn nữa giữa Nhà trường và Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch. Tham luận này tập trung:

1. Thống nhất những khái niệm cơ bản liên quan;

2. Luận cứ những lý do phải liên kết Nhà trường và Doanh nghiệp chặt chẽ hơn để phát triển nguồn nhân lực du lịch trong bối cảnh mới;

3. Xác định mục tiêu và nội dung liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp trong phát triển nguồn nhân lực du lịch;

4. Đề cập những hình thức, nguyên tắc và cơ chế liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch;

5. Đề xuất những giải pháp tăng cường liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch đủ năng lực thực hiện trong bối cảnh mới.

I. Những khái niệm liên quan

Trong tham luận này, những khái niệm chủ yếu cần thống nhất là: Nhà trường, Doanh nghiệp, Nhân lực và Nguồn nhân lực du lịch, phát triển nguồn nhân lực du lịch, năng lực thực hiện, liên kết phát triển nguồn nhân lực du lịch.

Nhà trường được hiểu là cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Điều 7 Luật giáo dục đại học 2012 quy định: Cơ sở giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân, gồm: trường cao đẳng; trường đại học; học viện; đại học vùng, đại học quốc gia (gọi chung là đại học); viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ.

Cơ sở giáo dục đại học Việt Nam được tổ chức theo các loại hình:

  • Cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc sở hữu nhà nước, do nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất;
  • Cơ sở giáo dục đại học tư thục thuộc sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân, do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất;
  • Cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nhà nước gồm: cơ sở giáo dục đại học có 100% vốn của nhà đầu tư nhà nước; cơ sở giáo dục đại học liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước.

Điều 5 Luật giáo dục nghề nghiệp 2014 quy định:

  1. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm: trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trường trung cấp và trường cao đẳng.
  2. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp được tổ chức theo các loại hình: cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập (là cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, do nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất) và cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục (là cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc sở hữu của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân, do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất).

Doanh nghiệp trong tham luận này là nhà tuyển, dụng lao động. Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.

Doanh nghiệp được phân loại theo tư cách pháp nhân, bao gồm: doanh nghiệp nhà nước (là doanh nghiệp trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ), doanh nghiệp tư nhân (là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.

Nhân lực du lịch là toàn bộ lực lượng lao động trực tiếp và gián tiếp liên quan đến quá trình phục vụ khách du lịch. Khi đề cập đến khái niệm nhân lực du lịch thì không chỉ đề cập đến những lao động nghiệp vụ phục vụ khách trực tiếp mà còn cả các lao động quản lý, lao động làm công tác đào tạo và các lao động gián tiếp khác phục vụ khách du lịch.

  • Lao động gián tiếp bao gồm những công việc cung ứng, hỗ trợ cho các hoạt động trực tiếp phục vụ khách du lịch như: cung ứng thực phẩm cho khách sạn nhà hàng, cung ứng hàng hoá cho các cửa hàng bán lẻ phục vụ khách du lịch, các dịch vụ của Chính phủ hỗ trợ phát triển du lịch, đào tạo nhân lực du lịch, xây dựng khách sạn, sản xuất phương tiện vận tải khách du lịch, các trang thiết bị phục vụ khách du lịch…
  • Lao động trực tiếp bao gồm những công việc trực tiếp phục vụ khách du lịch như trong khách sạn, nhà hàng, lữ hành, các cửa hàng bán lẻ phục vụ khách du lịch, cơ quan quản lý du lịch,… Lao động trực tiếp phục vụ du khách bao giờ cũng ảnh hưởng trực tiếp và lớn nhất đến chất lượng dịch vụ, từ đó đến chất lượng sản phẩm du lịch.

Như vậy có thể hiểu nhân lực du lịch là lực lượng lao động tham gia vào quá trình hoạt động du lịch, bao gồm lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Còn nguồn nhân lực du lịch là tổng thể những người đang “làm du lịch” và những người sẽ “làm du lịch”.

  • Khái niệm “năng lực” hoặc “năng lực thực hiện” là khả năng một cá nhân có thể hoàn thành công việc được giao theo tiêu chuẩn nơi làm việc. Năng lực thực hiện bảo gồm: Kiến thức, thái độ làm việc và kỹ năng cần thiết tại một nơi làm việc cụ thể của một nghề cụ thể.Tiêu chuẩn năng lực thực hiện được xếp theo các nhóm năng lực cơ bản, năng lực chung và năng lực cốt lõi. Để du lịch phát triển đáp ứng cầu du lịch trong bối cảnh toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực như hiện nay, ngành Du lịch cần một đội ngũ nhân lực đủ năng lực chiếm lĩnh được những công đoạn mang lại giá trị gia tăng cao trong chuỗi cung cấp dịch vụ du lịch của khu vực và toàn cầu.
  • Phát triển nguồn nhân lực du lịch là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý – xã hội) làm gia tăng số lượng và điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và phát triển du lịch trong từng giai đoạn phát triển. Phát triển nguồn nhân lực du lịch bao gồm quá trình đào tạo, bồi dưỡng, về kiến thức chung liên quan đến nghề nghiệp, kiến thức nghề nghiệp, kỹ năng nghề nghiệp, văn hóa và sức khỏe nghề nghiệp, sử dụng và đãi ngộ nhân lực du lịch chất lượng cao.

Liên kết phát triển nguồn nhân lực du lịch giữa Nhà trường và Nhà doanh nghiệp là hình thức hợp tác và phối hợp thường xuyên các hoạt động do các tổ chức, cá nhân tự nguyện tiến hành, nhằm cùng đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp liên quan đến công việc của các bên tham gia, thúc đẩy hoạt động phát triển nguồn nhân lực du lịch để đạt được mục tiêu riêng của mỗi bên theo hướng có lợi nhất.

II. Lý do cần liên kết giữa Nhà trường và Doanh nghiệp du lịch chặt chẽ hơn trong phát triển nguồn nhân lực du lịch theo nhu cầu xã hội

– Thứ nhất: do Tính phức hợp của nhu cầu phát triển nguồn nhân lực du lịch.

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, do đó nhân lực và nguồn nhân lực du lịch cũng như phát triển nguồn nhân lực du lịch phải có những đặc tính như vậy. Phát triển nguồn nhân lực du lịch cần cả gói dịch vụ. Trong khi đó, các chủ thể tham gia phát triển nguồn nhân lực du lịch chỉ có khả năng cung cấp một, một vài dịch vụ. Nên họ phải liên kết với nhau để có cả gói dịch vụ phát triển nguồn nhân lực du lịch: Từ giáo dục, hướng nghiệp du lịch đến đào tạo, dạy nghề, từ tuyển dụng, bố trí và sử dụng đến bồi dưỡng nhân lực, từ đãi ngộ, trả lương, khen thưởng đến bảo hiểm nhân lực du lịch.

  • Thứ hai: ở Việt Nam, liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp đã có tiền lệ trong thời bao cấp vì mục đích chung.

Thời kỳ vận hành nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, học sinh, sinh viên học du lịch được phân công thực tập tại các khách sạn, nhà hàng, công ty du lịch là doanh nghiệp quốc doanh; sau khi tốt nghiệp, họ được Nhà nước bố trí công tác. Trong mối quan hệ này, Nhà nước – với vai trò là trung tâm kế hoạch hóa và chỉ đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân – đã trở thành một chủ thể trung gian có vai trò chủ đạo, trực tiếp điều tiết, can thiệp sâu rộng vào cả hoạt động đào tạo của Nhà trường và hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp du lịch, hướng cả hai bên đạt tới mục tiêu phát triển chung mà Nhà nước đã đề ra cho phát triển ngành Du lịch.

  • Thứ ba: Liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch thời kỳ đầu đổi mới giảm dần, rất cần nhưng không đáp ứng nhu cầu.

Công cuộc đổi mới (từ 1986) tác động không nhỏ tới liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch. Nổi bật là nguồn ngân sách bao cấp từ Nhà nước bị cắt giảm, Nhà trường và Doanh nghiệp buộc phải quan tâm hơn mục tiêu tồn tại và phát triển của mình. Nhà trường quan tâm nâng cao chất lượng và tăng số lượng tuyển sinh. Doanh nghiệp du lịch ưu tiên hàng đầu cho vấn đề chi phí và lợi nhuận. Suốt khoảng 20 năm, liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực du lịch dần trở nên lỏng lẻo và tách biệt giữa đào tạo và sử dụng nhân lực, giữa nghiên cứu và chuyển giao khoa học và công nghệ, sử dụng sản phẩm khoa học công nghệ. Đồng thời, với xu hướng chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, can thiệp trực tiếp của Nhà nước tới hoạt động của Nhà trường và của Doanh nghiệp du lịch giảm dần. Nhà nước có chủ trương ủng hộ liên kết giữa Nhà trường và Doanh nghiệp du lịch, nhưng chưa thể chế hoá và chưa trở thành một ưu tiên quan trọng trong giai đoạn này.

  • Thứ tư: Vì lợi ích mỗi bên và xu thế chung.

Từ những năm đầu tiên của Thế kỷ này, mối quan hệ hợp tác liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp trong phát triển nguồn nhân lực du lịch đủ năng lực thực hiện dần chuyển sang một giai đoạn phát triển mới: Đa dạng hơn về loại hình hợp tác liên kết và mức độ gắn kết bắt nguồn từ chính nhu cầu các bên, phải đủ chặt chẽ, bền vững để thúc đẩy sự nghiệp phát triển nguồn nhân lục du lịch; tạo sự gắn kết, bổ sung cho nhau; tăng thu hút đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển nguồn nhân lực du lịch với năng lực thực hiện tốt, được thừa nhận trong cộng đồng ASEAN và thế giới; khắc phục sự cạnh tranh không lành mạnh; đảm bảo phát triển bền vững.

  • Về phía doanh nghiệp du lịch: Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức dần phổ biến và hội nhập quốc tế sâu rộng, mỗi doanh nghiệp du lịch muốn tồn tại và phát triển phải tạo ra những sản phẩm mới, có hàm lượng tri thức cao, có tính đột phá về sự trải nghiệm cho khách. Để đáp ứng, doanh nghiệp du lịch bắt đầu thực hiện các biện pháp đặt hàng, tài trợ, hợp tác với Nhà trường để thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch bằng cách tuyển dụng các cá nhân xuất sắc từ Nhà trường hay trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo trong Nhà trường (phát triển chương trình đào tạo, tham gia giảng dạy, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên thực hành, thực tập…). Doanh nghiệp du lịch dần nhận thức rõ hơn vai trò của mình trong bối cảnh mới, không chỉ là một tổ chức sản xuất kinh doanh vì lợi nhuận kinh tế mà còn phải thực hiện “trách nhiệm xã hội”nên hợp tác liên kết với Nhà trường thông qua tài trợ kinh phí, cấp học bổng… là những biện pháp thiết thực thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

Về phía Nhà trường: Một xu hướng mới quan trọng là sự xuất hiện quan niệm mới về “sứ mệnh thứ ba” của Nhà trường. Nhà trường không chỉ là nơi lưu giữ, kiến tạo và truyền bá tri thức qua giảng dạy và nghiên cứu khoa học, mà còn có trách nhiệm xã hội. Để thực hiện được sứ mệnh đó, Nhà trường cần mở cửa, hợp tác với bên ngoài để chuyển giao tri thức thành sản phẩm hữu ích cho cộng đồng (đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo đặt hàng của doanh nghiệp, tăng cường bán kết quả nghiên cứu). Nhà trường cũng đang đứng trước thách thức cạnh tranh và yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học khi ngân sách nhà nước và các nguồn thu chưa đáp ứng đủ. Từ đó, nảy sinh nhu cầu tiếp cận các nguồn tri thức, kinh nghiệm bên ngoài để tăng cường nội lực. Vì vậy, hợp tác với doanh nghiệp du lịch, tạo liên kết chặt chẽ với giới nghề nghiệp là một trong những phương án tối ưu giúp Nhà trường giải quyết những khó khăn và yêu cầu đặt ra.

III. Mục tiêu và nội dung liên kết giữa Nhà trường và Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch theo nhu cầu xã hội

  1. Mục tiêu: Mục tiêu chung của liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch là thúc đẩy tạo gắn kết, bổ sung, tăng thu hút đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển nguồn nhân lực du lịch với năng lực thực hiện tốt (cả kiến, kỹ năng và thái độ), được thừa nhận trong cộng đồng ASEAN và thế giới; khắc phục cạnh tranh không lành mạnh; phát triển bền vững. Ngoài mục đích chung này, mỗi bên tham gia liên kết còn có những mục đích riêng: Nhà trường liên kết để nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học; và Doanh nghiệp du lịch liên kết để có đủ nguồn nhân lực, đảm bảo về chất lượng và hợp lý về cơ cấu để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường du lịch khu vực và thế giới.
  2. Nội dung liên kết: Liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch để phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao gồm những nội dung và việc cụ thể của các bên như sau:

Dưới góc độ nghiệp vụ chuyên môn:

– Những việc của Nhà trường là đầu tư nâng cao năng lực đào tạo, dạy nghề như đầu tư mới, nâng cấp trang thiết bị dạy và học hiện đại, đáp ứng yêu cầu gắn lý thuyết với thực hành…; đổi mới, phát triển chương trình giáo dục và giáo trình các môn học, mô đun dựa trên năng lực; phát triển đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo và nhà giáo; tổ chức giao lưu hàng năm giữa cán bộ, giảng viên, giáo viên, học sinh, sinh viên chuyên ngành du lịch.

– Những việc của Doanh nghiệp du lịch là tham gia giáo dục du lịch và bồi dưỡng nhân lực về mọi mặt (hướng nghiệp; cấp học bổng; tạo nơi thực tập, kiến tập; đặt hàng; cử chuyên gia tham gia; góp ý chương trình, giáo trình; thông tin nhu cầu lao động của doanh nghiệp…); đồng thời bố trí và sử dụng nhân lực, thực hiện đãi ngộ, trả lương, bảo hiểm xã hội cho nhân lực du lịch, nhất là nhân lực du lịch chất lượng cao. Tạo điều kiện cho người học du lịch được thực tập tại các khách sạn chuẩn, cao cấp và các khu resort tại các tỉnh, thành phố, các doanh nghiệp lữ hành…

– Liên kết dưới góc độ chuyên môn giữa Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch tạo điều điều kiện cho các hiệp hội nghề nghiệp, các câu lạc bộ du lịch giao lưu, học tập, trao đổi kinh nghiệm. Phối hợp hỗ trợ đào tạo mới và đào tạo lại nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cán bộ công nhân viên tại các khu, điểm du lịch; nâng cao nhận thức và giáo dục du lịch cộng đồng dân cư tại những nơi có hoạt động du lịch.

Dưới góc độ lãnh thổ:Liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch có thể là liên kết những vùng, tiểu vùng hoặc những khu vực, tiểu khu vực, các địa phương trong một vùng của Việt Nam hoặc với các địa phương của các nước chung đường biên giới có nhiều nét tương đồng và có thể hỗ trợ lẫn nhau về nguồn lực phát triển nhân lực du lịch để tạo nên sức mạnh, sự liên kết phát triển du lịch mang lại lợi ích chung và cho từng thành viên tham gia. Về lâu dài, liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp trong phát triển nguồn nhân lực du lịch nên quét hết vùng lãnh thổ du lịch theo Chiến lược, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Chiến lược phát triển du lịch ASEAN vừa công bố đầu năm 2016.

IV.Hình thức, nguyên tắc và cơ chế liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch trong bối cảnh mới

  1. Hình thức liên kết: Liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp trong phát triển nguồn nhân lực du lịch có thể dưới ba hình thức là liên kết ngang, liên kết dọc và liên kết chéo.
  • Liên kết ngang: trong phát triển nguồn nhân lực du lịch là hình thức liên kết mà các doanh nghiệp cùng loại; các cơ sở giáo dục du lịch cùng cấp trình độ kết hợp với nhau để phát huy thế mạnh bổ sung cho nhau, hạn chế những yếu kém và những bất lợi trong phát triển nguồn nhân lực du lịch. Ví dụ: Hiệp hội ngành nghề, chuỗi, liên minh như hiệp hội, chuỗi, liên minh; các hiệp hội các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; hội đồng hiệu trưởng, câu lạc bộ…
  • Liên kết dọc: trong phát triển nguồn nhân lực du lịch là hình thức liên kết mà các doanh nghiệp ngành nghề khác nhau, các cơ sở giáo dục du lịch ở các cấp trình độ đào tạo khác nhau liên kết để chia sẻ tài nguyên đào tạo, dạy nghề (giáo dục nghề nghiệp), khắc phục hạn chế, phát huy thế mạnh; hỗ trợ nhau về mọi mặt, hợp tác phân công nhau phát triển nguồn nhân lực du lịch ở các công đoạn nối tiếp nhau.
  • Liên kết chéo: trong phát triển nguồn nhân lực du lịch là hình thức liên kết giữa cơ sở giáo dục du lịch với các doanh nghiệp du lịch để hình thành chuỗi giá trị phát triển nguồn nhân lực du lịch từ hướng nghiệp đến đào tạo, dạy nghề, từ tuyển dụng đến sử dụng, từ đào tạo tại chỗ đến bồi dưỡng và đãi ngộ nhân lực.
  1. Nguyên tắc và cơ chế hợp tác liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao: Liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch theo 06 nguyên tắc cơ bản trên cơ sở nhận thức đúng về lợi ích chung, bình đẳng, tự nguyện, cùng có lợi, cùng tham gia, chất lượng và hiệu quả.
  • Bình đẳng trong liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch để phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là tất cả các thành viên trong liên kết đều có đủ tư cách để tham gia như những thành viên khác trong việc quản trị liên kết. Không có một thành viên nào, hay là một số thành viên nào, có thể tự coi có tư cách được phép “cai trị” các thành viên khác trong liên kết. Các bên tham gia liên kết hoàn toàn bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ.
  • Tự nguyện có nghĩa là trong liên kết không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào.
  • Cùng có lợi là trong nền kinh tế thị trường mỗi bên tham gia vào quan hệ hợp tác liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch để phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao đều xuất phát từ lợi ích riêng của mình. Khi liên kết các bên cùng nhau thoả thuận những điều khoản liên kết có lợi nhất cho cả các bên, không được lừa dối chèn ép nhau. Cùng tham gia là trong liên kết là nguyên tắc các bên tham gia xây dựng kế hoạch liên kết, triển khai thực hiện, giám sát và đánh giá liên kết; cùng được sở hữu kết quả của liên kết.
  • Nguyên tắc chất lượng đảm bảo sự phù hợp của kết quả hoạt động liên kết với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực.
  • Hiệu quả luôn là nguyên tắc nhắm tới của liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch, phát huy được tính tích cực của các bên tham gia, tận tâm tận lực với công việc và phối hợp chặt chẽ với nhau trong liên kết, đảm bảo phối hợp một cách tốt nhất trong liên kết.
  1. Liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch thực hiện theo cơ chế:
  • Một là phải kết hợp hài hòa việc liên kết giữa các địa phương trong một vùng, tiểu vùng nói riêng và sự hợp tác với các địa phương khác trong cả nước nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch;
  • Hai là liên kết trên tất cả các bình diện (cấp tỉnh, cấp huyện (các đô thị du lịch và các khu du lịch lớn), sở, doanh nghiệp, hiệp hội) và lĩnh vực, ưu tiên những việc cấp thiết trước;
  • Ba là liên kết cấp tỉnh (các tỉnh và thành phố) với nhau thể hiện qua một thỏa thuận phân công nhiệm vụ của từng thành viên liên kết;
  • Bốn là phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo phát triển du lịch của dịa phương trong điều phối hợp các hoạt động liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch để phát triển nguồn nhân lực du lịch.
    V.Đề xuất những giải pháp để tăng cường liên kết Nhà trường và Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch theo nhu cầu xã hội trong bối cảnh phát triển du lịch của đất nước đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế về du lịch ngày một sâu và toàn diện

Để tăng cường liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu, thoả thuận thừa nhận lẫn nhau trong các nghề du lịch ASEAN (MRA-TP) khi Cộng đồng ASEAN đã ra đời và thực hiện trên cả 3 trụ cột là Cộng đồng Chính trị – An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hoá – Xã hội, cần một hệ thống 11 giải pháp đồng bộ cho 3 lĩnh vực (Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; Khoa học và công nghệ; và Quản trị doanh nghiệp), cụ thể là:

  1. Đối với lĩnh vực giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch, tập trung vào 7 giải pháp sau đây:

– Tăng cường đào tạo theo chuẩn đầu ra, bổ sung các tiêu chí, chỉ số đánh giá về mức độ liên kết giữa Nhà trường và Doanh nghiệp du lịch;

– Tiếp tục thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, chú ý kết quả đánh giá của thị trường lao động, cơ sở sử dụng lao động về chất lượng đào tạo, gắn kết quả kiểm định chất lượng với tiêu chí phân bổ ngân sách. Tăng cường yêu cầu thực hiện trách nhiệm giải trình một cách thực chất;

– Đổi mới cơ chế phân bổ tài chính theo các yếu tố đầu ra, gắn với các hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật trong đào tạo, định mức phân bổ chi phí đào tạo, có sự phân biệt giữa cơ sở hoạt động có chất lượng, hiệu quả với cơ sở kém chất lượng, không hiệu quả. Nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước như một công cụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở đào tạo;

– Nghiên cứu xây dựng mô hình quản trị trường du lịch công lập theo mô hình quản trị doanh nghiệp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của trường đại học và cao đẳng du lịch công lập, tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính và đảm bảo chất lượng đào tạo; nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ theo xu hướng hoạt động của trường đại học và cao đẳng du lịch công lập cũng giống như doanh nghiệp với đầu vào và đầu ra đều do thị trường quyết định;

– Thực hiện cơ chế Nhà nước đặt hàng đào tạo phù hợp đối với một số nghề quan trọng, thu hút nhiều lao động hoặc ít người đăng ký học;

– Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì và phối hợp với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ và các bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập;

– Xây dựng và phát triển mối quan hệ với cộng đồng doanh nghiệp, giúp gắn đào tạo lý thuyết với thực tiễn; đa dạng hóa nguồn thu của Nhà trường.

  1. Đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ tập trung vào giải pháp sau đây:

Đối với các đề tài khoa học ứng dụng, cần bổ sung các tiêu chí liên quan tới vấn đề hợp tác Nhà trường và Doanh nghiệp trong tuyển chọn và đánh giá, nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học.

– Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia nghiên cứu đề tài khoa học và công nghệ để tạo động lực thúc đẩy nghiên cứu thực hiện chuyển giao công nghệ, thương mại hoá kết quả nghiên cứu.

3. Đối với lĩnh vực quản trị doanh nghiệp tập trung vào 3 giải pháp sau đây:

– Thành lập Quỹ Giáo dục và Đào tạo trong Doanh nghiệp, có cơ chế ưu đãi sự nghiệp tương tự như Quỹ Khoa học Công nghệ (theo Thông tư 78/2014/TT-BTC ngày 18/06/2014 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp);

– Có những chính sách ưu đãi thuế;

– Có chế độ tôn vinh, vinh danh các doanh nghiệp có đóng góp tích cực trong hoạt động hợp tác, liên kết với Nhà trường.
IV.Kết luận và kiến nghị

  1. Kết luận

Liên kết đã được bàn đến ngày càng nhiều ở các lĩnh vực và trên nhiều bình diện. Trong phát triển nguồn nhân lực du lịch, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, liên kết Nhà trường và Doanh nghiệp cũng được chú ý. Càng liên kết phối hợp với nhau chặt chẽ bao nhiêu, liên kết bền vững bao nhiêu, thì Doanh nghiệp du lịch càng có lợi bấy nhiêu, Nhà trường đào tạo du lịch cũng có lợi bấy nhiêu.

Liên kết tốt sẽ thúc đẩy sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực du lịch đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và hợp lý về cơ cấu. Nhờ thế, du khách được phục vụ tốt hơn, sẽ đến đông hơn, khả năng tiêu thụ sản phẩm của từng doanh nghiệp du lịch và các nhà cung cấp dịch vụ vì thế mà được nâng lên. Uy tín của điểm du lịch cũng được hình thành và nâng cao. Đến lượt nó, uy tín đối với khách hàng của điểm du lịch sẽ tạo ra sự hấp dẫn, ưa chuộng của khách du lịch. Nhà nước cũng sẽ đạt được mục tiêu quản lý của mình. Cộng đồng dân cư nơi khác đến cũng sẽ có thêm nguồn lực, việc làm. Đây là một vòng xoáy, ngày một nâng cao bình diện của uy tín riêng có của mỗi điểm du lịch.

Để liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch trong phát triển nguồn nhân lực du lịch bền vững và hiệu quả, Nhà nước cần phát huy vai trò kiến tạo, Hiệp hội đào tạo du lịch phát huy tốt vai trò nhạc trưởng.Nhà nước và Hiệp hội đào tạo du lịch không cần trực tiếp triển khai các hoạt động hợp tác liên kết phát triển nguồn nhân lực trong thực tế, mà chỉ tạo môi trường, kiến tạo và triển khai thực hiện những chiến lược, điều kiện chung cho liên kết phát triển nguồn nhân lực du lịch; xây dựng cơ cấu tổ chức của Nhà trường, Doanh nghiệp và các mối liên kết; hỗ trợ kỹ thuật và cấp kinh phí cho liên kết.

Hiệp hội Khách sạn, Hiệp hội Lữ hành (đại diện cho doanh nghiệp) và Liên chi hội Đào tạo du lịch (đại diện cho nhà trường) phối hợp với nhau kết nối hai chủ thể liên kết là nhà trường và doanh nghiệp trong phát triển nguồn nhân lực; đồng thời tham mưu, đề xuất với Nhà nước trong tạo ra và duy trì và đẩy mạnh liên kết nhà trường và nhà doanh nghiệp.

Nhà nước xây dựng khung chính sách về thuế, về phát triển nguồn nhân lực; về khoa học và công nghệ… và các chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho từng đối tượng quản lý cụ thể cho doanh nghiệp, cho trường du lịch ngoài công lập… Trên cơ sở những khung chính sách đó, Nhà nước ban hành luật pháp và các quy định, hướng dẫn thực hiện; đồng thời thiết kế các “đòn bẩy” nhằm tạo ra tác động về kinh tế, đầu tư kinh phí cho các hoạt động thúc đẩy hoạt động hợp tác liên kết (thông tin thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ) hoặc cấp kinh phí cho các bên liên quan.

  1. Kiến nghị

Để các giải pháp nêu trên có khả năng thực thi cao xin đề xuất một số kiến nghị:

– Nâng cao hiệu quả của quy trình hoạch định chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp luật: thực hiện việc lấy ý kiến đối tượng chịu tác động một cách hiệu quả và thực chất; thực hiện đánh giá tác động của văn bản sau khi ban hành (độc lập với nhóm biên soạn); thí điểm cho phép các nhóm chuyên gia dự thảo trình cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; xây dựng cơ sở dữ liệu các chuyên gia có năng lực tư vấn, hoạch định pháp luật;

– Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động du lịch để hỗ trợ hoạt động hợp tác liên kết Nhà trường – Doanh nghiệp du lịch, giúp Nhà trường và Doanh nghiệp nắm bắt chính xác thực trạng và dự báo xu hướng tương lai của thị trường lao động du lịch để đề ra những phương thức liên kết phù hợp;

– Các hiệp hội du lịch và liên quan đến du lịch cần có những hoạt động tôn vinh các doanh nghiệp và nhà trường đóng góp tích cực cho hoạt động liên kết phát triển nguồn nhân lực du lịch ./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Báo cáo tổng hợp “Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020”, Hà Nội tháng 7 năm 2011.
  2. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch – Báo cáo tổng hợp “Quy hoạch phát triển nhân lực du lịch Việt Nam đến năm 2020”, Hà Nội tháng 11 năm 2011.
  3. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch -Hiệp định hợp tác Du lịch ASEAN, Hà Nội 2010.
  4. Bộ Giáo dục và Đào tạo – Báo cáo nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong hợp tác trường đại học và doanh nghiệp, 2015.
  5. Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Chương trình hành động của Chính phủ về tham gia hợp tác ASEAN đến 2015, Hà Nội năm 2008.
  6. Rosenbluth, Diane McFerrin Peters – Khách hàng chưa phải là thượng đế, Nxb Tri thức, Hà Nội năm 2009.
  7. Liên chi hội đào tạo du lịch – Tài liệu liên quan đến Hiệp đội đào tạo du lịch.
  8. Nguyễn Văn Lưu – Du lịch Việt Nam hội nhập trong ASEAN, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội 2015.
  9. Philip Kotler, Hermawan Kartajaya, Hooi Den Huan – Tư duy ASEAN hướng tới cộng đồng ASEAN 2015, Nxb Thanh niên, Hà Nội năm 2010.
  10. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Luật du lịch (Song ngữ Việt -Anh), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2005.
  11. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam – Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2011 phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
  12. Tổng cục Du lịch – Báo cáo về Tuyên bố Cebu về thành lập Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 đã được phê chuẩn tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12, Hà Nội 2010.
  13. Tổng cục Du lịch – Báo cáo Tầm nhìn ASEAN 2020 và Tuyên bố của Hiệp ước ASEAN II về hình thành 3 trụ cột là Cộng đồng An ninh ASEAN, Cộng đồng kinh tế ASEAN và Cộng đồng Văn hoá – Xã hội ASEAN.
  14. Tổng cục Du lịch – Báo cáo về MRA-TP và Chiến lược phát triển du lịch ASEAN, tầm nhìn ASEAN 2030.
Nguyễn Văn Lưu – Cố vấn phó Dự án ADB 2652 - Tổng cục Dạy nghề - Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
ĐĂNG KÝ HỘI VIÊN